a Lục Nhất, sẽ không còn cảm thấy day dứt vì lừa dối một người lương thiện.
Hai người đến giáo đường ngồi cả buổi. Dĩ nhiên, Chúa chẳng thể trả lời câu hỏi của Lục Nhất, nhưng anh vẫn cảm tạ sâu sắc vì nhờ có Người mà lúc này anh có được Phương Đăng ở bên. Cách giáo đường không xa là cô nhi viện Thánh Ân, Lục Nhất hỏi Phương Đăng có muốn ghé qua thăm nom không, Phương Đăng dứt khoát cự tuyệt.
Lục Nhất cũng không nài ép, anh hiểu có những chốn mà đã rời đi, người ta không muốn quay lại nữa. Anh theo chân Phương Đăng đi tiếp về phía trước, lắng tai nghe những tiếng cười đùa trẻ con vọng ra từ cô nhi viện, bèn nói: “Tôi ngốc thật, trước khi gặp cô, tôi luôn cho rằng cha mình sẽ nhận nuôi một ‘bé gái’, ai ngờ cô chỉ kém tôi có một tháng tuổi. À cô chưa kể tôi nghe, cô và cha tôi làm thế nào mà quen biết?”
Phương Đăng lảng đi: “Tôi không rõ lắm, khi cha anh đề nghị nhận nuôi, tôi cảm thấy rất bất ngờ. Có lẽ ông thấy tôi đáng thương.”
Lục Nhất không mảy may nghi ngờ, gật đầu nói: “Tôi cũng đoán vậy. Kể ra cô và cha con tôi có duyên đấy chứ?”
Nói xong anh cố tình liếc nhìn Phương Đăng một cái, chẳng hề hay biết lời mình vừa thốt ra vào đến tai Phương Đăng lại đầy vẻ mỉa mai. Quả thật có duyên, nhưng là hoạ hay phúc chỉ có trời mới rõ, biết đâu ngày nào đó, anh cũng sẽ cảm thấy hối hận vì đã gặp phải cô, như người cha đã chết của anh.
“Bình thường trông cha tôi nghiêm khắc vậy thôi, kỳ thực ông rất tốt, không những đối với tôi, mà với những người yếu thế ông rất quan tâm, muốn giúp đỡ. Tôi còn nhớ có một người rất nghèo đến xin ông đánh kiện cho, ông đã nhận làm mà không lấy một xu nào. Cha nói, trên đời này luôn tồn tại công bằng và chính nghĩa. Từ nhỏ tôi đã coi cha là tấm gương, tôi luôn muốn làm một người chính trực, cao thượng, đối tốt với mọi người như ông.”
Phương Đăng cố giấu nụ cười nhạt. Cô không muốn phá hỏng hình tượng người cha cao đẹp trong lòng một cậu con trai. Cô cúi đầu, trân trối nhìn những viên đá xanh dưới chân: “Nói như vậy, quả thực trời cao không có mắt.”
Lục Nhất khẽ cười, “Dù cha tôi không còn, nhưng nhờ ông mà tôi quen biết cô, tôi tin lúc ấy ông thật lòng muốn cho cô một gia đình và cuộc sống ổn định. Nếu ông thấy bây giờ chúng ta... làm bạn với nhau, chắc là vui lắm.”
“Có thể.” Phương Đăng lạnh nhạt đáp.
Đang là cuối tuần, lượng du khách đổ về đảo Qua Âm không ít, Phương Đăng đã rất lâu không trở lại, nơi này đã thay đổi rất nhiều. Do mấy năm gần đây ngành du lịch trên đảo phát triển mạnh, các khách sạn và quán cà phê đủ kiểu cách quy mô mọc lên như nấm sau mưa, rất nhiều ngôi nhà cổ niên đại xấp xỉ Phó gia viện được tu bổ lại, mở cửa đón khách tham quan, hoặc trở thành các khách sạn tư. Từ cổng cô nhi viện Thánh Ân lùi lại vài mét, là một dãy những nhà hàng thủ công mỹ nghệ và tiệm bánh kiểu Tây mang đầy phong vị tiểu tư sản. Ngôi nhà xây chui của lão Đỗ đã bị dỡ bỏ, thay vào đó là một siêu thị cỡ nhỏ. Căn gác xép từng là nơi trú mưa trú nắng của cô dĩ nhiên không còn tồn tại. Trải bao phong ba bão táp, chỉ có Phó gia viện là vẫn như ngày xưa.
“Phương Đăng, trước khi vào cô nhi viện, cô sống ở nơi nào trên đảo?” Lục Nhất tò mò hỏi.
Phương Đăng chỉ về phía cái siêu thị nhỏ, “Ở kia. Cha con tôi thuê một căn gác xép nhỏ trên tầng hai.”
“Tiếc là không được trông thấy dáng vẻ ngôi nhà đó thế nào nữa.” Lục Nhất có vẻ tiếc nuối.
“Có gì mà tiếc, một chốn lụp xụp tàn tạ như bao chốn nhà nghèo hay ở thôi.”
“Hồi đó cô có nghĩ những ngày sau này mình sẽ ra sao không? À đúng rồi, tại sao cô lại mở cửa hàng vải nội thất?” Lục Nhất có vẻ vô cùng hiếu kỳ với tất cả mọi thứ thuộc về Phương Đăng, chỉ hận không biết hết mọi chuyện kiếp trước kiếp này của cô cho rồi.
Phương Đăng kiềm lòng không đặng chậm lại bước chân, nhìn về Phó gia viện cách đó không xa, “Tôi thích những món đồ làm bằng vải, nó cho con người ta cảm giác như đã về nhà vậy.”
Cô lại nói dối. Cõi đi về trong cô chẳng có gì khác ngoài một khung cửa sổ nhỏ bé phủ rèm nhung màu đỏ tươi. Trong giấc mơ, cô chạy về phía ấy biết bao lần, mà khi đến đích, trước mắt vĩnh viễn chỉ có đường cầu thang chật hẹp và căn gác xép lúp xúp tồi tàn. Người rời, vườn không, Phó gia viện càng hoang phế thê lương. Rất nhiều đồ và vật trang trí đã bị tháo mất, tấm rèm nhung đỏ không cánh mà bay. Sau khi đủ tuổi trưởng thành, Phương Đăng từng tìm kiếm khắp nơi chất vải và màu sắc tương tự đấy, đâm ra cô mở luôn một cửa hàng vải nội thất. Sau này cô mới hiểu, rằng mình không thể nào tìm lại tấm rèm ngày ấy, bởi đến cái người đứng sau rèm trong ký ức kia, cũng không còn dáng vẻ xa xưa nữa.
“Tôi cũng nghĩ vậy.” Lục Nhất phụ hoạ. Anh đưa mắt nhìn căn nhà cổ phía trước. Dù cho hoang tàn đến nhường nào thì trên đảo Qua Âm, sự tồn tại của nó vẫn là không thể thay thế được. Mấy ai đi qua đây mà dám không ngước đầu ngưỡng vọng?
“Biết bao căn nhà cổ đã xây mới, mà sao căn nhà nổi tiếng nhất lại cứ bỏ hoang tại đây nhỉ? Không biết con cháu họ Phó có thấy đau xót không. Tôi từng đọc một số tài liệu liên quan đến hòn đảo này, năm xưa nhà họ Phó nghe nói lừng lẫy có một không hai.”
“Có thể họ có nỗi khổ tâm riêng.” Phương Đăng nói.
Lục Nhất tỏ ý đồng tình. “Ngày trước tôi từng nghe cha nói, gia tộc nào trong quá khứ càng cường thịnh, thì quyền thừa kế nhà cửa sản nghiệp càng phức tạp. Phương Đăng, trước đây cô sống ngay cạnh Phó gia viện, có từng nghe lời đồn về nơi ấy chưa?”
“Đồn đại gì, cũng chỉ là ngôi nhà hoang thôi mà!”
“Tôi nghe nói Phó gia viện là căn nhà ma nổi tiếng trên đảo, cứ đêm đến là nghe tiếng gió gào thảm thiết, có người gọi đó là biệt thự hồ ly, cô có biết nguyên do từ đâu không? Sống ngay cạnh đó cô có thấy ghê không?”
“Dĩ nhiên là ghê rồi. Trong cái nhà đó có con ma nữ, mỗi đêm trăng tròn nó xoã mái tóc dài thò đầu từ dưới giếng lên, vừa dạo quanh vườn vừa khóc lóc tỉ tê.” Phương Đăng vờ doạ dẫm.
Lục Nhất là đàn ông con trai, đương nhiên không thấy sợ, anh cười nói: “Cô lại đùa rồi. Tôi thì thấy những tin đồn ma quỷ đó chỉ là tam sao thất bản mà thôi.”
Phương Đăng và Lục Nhất vào siêu thị mua hai chai nước, như nhớ đến điều gì, Phương Đăng thốt nhiên nói: “Để tôi kể cho anh một câu chuyện liên quan đến Phó gia viện nhé, chuyện này không phải do tôi chế ra đâu.”
Cô ngồi xuống cửa siêu thị, vừa uống nước, vừa dịu giọng kể lại câu chuyện hồ ly nhỏ và hồ ly đá của Tiểu Xuân cô nương. Lục Nhất nghe rất chăm chú, nghe xong, anh nói: “Câu chuyện này còn ghê hơn chuyện ma nữ đáy giếng ban nãy.”
“Sao lại thế?”
“Cô nghĩ mà xem. Mấy chuyện ma nữ gì đó ở đâu chẳng có, nhưng câu chuyện cô vừa kể, càng ngẫm sâu xa, càng khiến lòng người nghe khó chịu. Con hồ ly nhỏ moi trái tim hiến cho hồ ly đá, chẳng có được người bầu bạn như nó hằng mong, lại phải thay hồ ly đá chịu hình phạt ngàn năm và bị nỗi cô đơn giày vò, thật quá bất công. May mà nó không còn trái tim, nếu còn, chắc cũng nguội lạnh.”
Phương Đăng cười: “Công bằng? Anh tin trên đời này tồn tại công bằng ư?”
“Dĩ nhiên!” Lục Nhất nói một cách kiên quyết, “Thế gian này chắc chắn tồn tại công bằng và chính nghĩa. Người tốt phải được báo đáp, hồ ly tốt cũng vậy.”
Phương Đăng không đồng tình. Chỉ có người từ nhỏ luôn đắm chìm trong ánh mặt trời, tâm địa thuần lương như anh ta mới có niềm tin nhảm nhí như vậy.
“Chỉ là chuyện kể cho vui, nghe rồi thì thôi.”
“Câu chuyện này cô nghe từ ai thế?” Lục Nhất hỏi.
“Tôi quên rồi.” Phương Đăng đáp một cách mơ hồ.
“Tôi nghĩ người ấy chưa kể xong đâu, chẳng lý do gì câu chuyện lại kết thúc ở đó.”
“Anh lại xoắn rồi.” Phương Đăng cười cười, kiếm cớ trêu. “Hay anh định viết tiếp hộ người ta?”
Lục Nhất cũng cười, anh cầm chai nước khoáng trong tay, quả thực ngẫm nghĩ một lúc, nói: “Nếu để tôi viết tiếp câu chuyện này thì... Cho dù hồ ly đá không quay lại, cũng chẳng lý do gì để con hồ ly nhỏ phải cô đơn mãi, một ngàn năm quá dài, phải có cái gì đó xuất hiện chứ...”
“Ví dụ như chuột chũi, hay là côn trùng gì đấy?”
“Cô không nghĩ ra cái gì xinh xắn hơn một tí được à?” Lục Nhất cười như trẻ con, “Để xem nào, bọn gia cầm là chúa thích tha thẩn trong vườn hoang. Đúng rồi, một con chim.”
“Một thời gian sau, có con chim bay đến?” Phương Đăng vừa uống một ngụm nước, suýt nữa phun cả ra ngoài.
“Cô muốn nghe thì nghiêm túc một tí đi.” Lục Nhất cố tình xị mặt ra vẻ cảnh cáo, “Cứ cho đó là một con chim sơn ca đi.”
“Sao lại là sơn ca, chim sơn ca trông thế nào?”
Lục Nhất cười nói: “Cô hỏi tại sao tại sao nhiều thế, tóm lại chim sơn ca là loài chim tốt... à, loài chim có ích! Này đừng có cười, nghe tiếp đây này. Sau khi hồ ly đá đi rồi, một hôm, có con chim sơn ca bay vào vườn. Nó thấy con hồ ly con cô đơn quá, nên ngày nào cũng bay đến, đậu trên ngọn cây hót...”
“Vì sao lại thế?”
“Hả?” Lục Nhất không hiểu.
Phương Đăng nói: “Chuyện anh sáng tác có lỗ hổng, con sơn ca đó tự dưng sao lại tốt với hồ ly nhỏ vậy, ngày nào cũng đến hót cho nó nghe!”
“Con người cô thật là, cứ nghĩ mọi thứ đều xấu xí. Thế cô nói xem, tại sao hồ ly nhỏ lại hiến tim mình cho hồ ly đá?” Lục Nhất ấm ức vặn lại.
Phương Đăng chợt sững người, cô chẳng hề nghĩ đến điều này.
“Bởi vì hồ ly nhỏ và hồ ly đá ít nhất cũng là đồng loại.” Cô gắng gượng lý sự cùn.
“Ai bảo không phải đồng loại thì không thể đồng cảm? Mà nói chung câu chuyện của tôi là như thế. Ngày nào sơn ca cũng bay đến hót cho con hồ ly nhỏ nghe, dùng mỏ chải lông cho hồ ly nhỏ. Lại có người bầu bạn, trái tim hồ ly nhỏ dường như bắt đầu đập trở lại.” Lục Nhất có vẻ rất hài lòng với tác phẩm của mình.
“Mất tim rồi làm sao mà đập được nữa?” Phương Đăng khinh khỉnh, “Bố mẹ anh ngày xưa chắc suốt ngày kể chuyện cổ tích cho anh nghe đúng không, bị lậm nặng quá rồi đấy.”
“Tôi chẳng hiểu nổi suy nghĩ trong đầu cô, Phương Đăng. Tin vào những điều tốt đẹp trên đời này khó vậy sao?” Lục Nhất khi trở nên cứng đầu cũng dễ khiến người ta chịu không nổi.
Phương Đăng đứng bật dậy nói: “Nếu chuyện cổ tích có thật, sao không thấy cô công chúa nào từ trên trời rơi xuống cứu rỗi anh chàng kỹ sư ế như anh?”
Lục Nhất định nói: sao cô biết không có, nhưng lại không dám nói ra lời lộ liễu quá, đành tiếp tục cúi đầu cười.
Chộn rộn một hồi, tâm trạng Phương Đăng bỗng tốt hơn hẳn. Cô đi men theo chân tường căn biệt thự, đến thẳng chỗ tường giáp với vườn sau, trong quá khứ đã bao lần cô ra vào vườn từ đây.
“Anh có muốn tận mắt nhìn thấy bức tượng hồ ly đó không?” Cô quay lại mỉm cười, cởi phăng đôi giày cao gót.
“Muốn chứ... Ơ kìa, đừng bảo cô định trèo tường vào đấy nhé? Tuyệt đối đừng nên, cẩn thận có người trông thấy bây giờ.” Lục Nhất ngoái nhìn tứ phía, anh không ngờ Phương Đăng lại liều lĩnh như thế. Người chưa từng làm việc xấu trong lòng tất lo lắng khác thường.
“Sợ người ta nhìn thì im lặng.” Phương Đăng thầm thấy may vì hôm nay mình mặc quần. Thực ra cô thừa biết, sau khi già Thôi được Phó Thất đón sang Mỹ dưỡng già, trong vườn này chẳng còn ai. Đã nhiều năm không giở ngón nghề, lúc đầu cô thấy hơi khó dùng sức một chút, nhưng quen rồi mới hay mình còn dẻo dai c...